Phần 3Những Kênh ( hoặc Phase )Nhưng có một điều xin nói trước . Trên một số Motherboard Phase mà điều khiển điện áp của Chipset hoặc Bộ nhớ lại nằm gần với những Phase khác , vì thế điều đó bạn có thể đếm sai Phase nếu bạn chỉ đếm đơn giản số lượng những Cuộn cảm nằm gần Socket của CPU .
Trong trường hợp Hình 11 mô tả một cách sinh động trên Motherboard có 04 Cuộn cảm , nhưng nó lại là loại Motherboard 03 Phase và như vậy chỉ có 03 Phase được dùng để tạo điện áp cho CPU và Phase thứ tư được dùng để tạo ra điện áp dùng cho Bộ nhớ . Chúng tôi sẽ hướng dẫn nhận biết chính xác số lượng Phase sử dụng cho việc tạo điện áp cho CPU
Hình 11 : Motherboard đếm được 04 cuộn cảm , nhưng chỉ có 03 Phase để cung cấp điện áp cho CPU
Tất cả những Cuộn cảm mà cùng điện áp đầu ra có những đầu ra của nó được nối lại cùng với nhau . Vì thế chỉ nên đếm những Cuộn cảm mà có đầu ra được nối cùng với nhau . Điều này có thể xác định được bằng cách kiểm tra mỗi Cuộn cảm trên mặt hàn của Motherboard . Trong Hình 12 chúng ta có thể thấy mặt hàn của Motherboard trên Hình 11 , và sẽ thấy chỉ có 03 Cuộn cảm được nối cùng với nhau mà thôi và đầu ra của Cuộn cảm thứ 4 lại đi phía dưới của những Socket bộ nhớ .
Hình 12: Cách chính xác để đếm những Cuộn cảm
Trong ví dụ trong Hình 13 là của Motherboard rất cao cấp với 10 Phase . Motherboard này sử dụng tản nhiệt thụ động bên trên những cuộn cảm , bộ phận tản nhiệt được gỡ bỏ để tiện quan sát .
Hình 13 : Motherboard rất cao cấp với 10 Phase
Bây giờ bạn đã biết cách làm thế nào để nhận biết chính xác và cách đếm những Phase điều chỉnh điện áp . Bây giờ là lúc cần biết chính xác mạch VRC làm việc như thế nào .
VRC làm việc như thế nào ?VRC nhận điện áp +12V của đầu nối ATX12V hoặc EPS12V trên Motherboard và chuyển đổi thành những điện áp dùng cho những linh kiện phù hợp như CPU , RAM , Chipset … . Sự chuyển đổi này được thực hiện bằng Bộ chuyển đổi DC-DC , cũng được biết bằng cái tên gọi SMPS ( Switching-Mode Power Supply ) , cùng với hệ thống dùng bên trong bộ nguồn chính của PC .
Tâm điểm của Bộ chuyển đổi này chính là
Bộ phận điều khiển PWM ( Pulse Width Modulation - Điều chế độ rộng xung ) . Mạch điện này tạo những tín hiệu dạng xung vuông mà sẽ điều khiển mỗi Phase . Trong chu kì làm việc giá trị khác nhau của tín hiệu này sẽ cho biết mạch điện muốn tạo ra điện áp là bao nhiêu . Ví dụ tín hiệu với chu kì làm việc 50% thì sẽ có ½ thời gian nó sẽ ở mức điện áp thấp ( thông thường là 0V ) và 50% thời gian làm việc nó sẽ có mức giá trị điện áp cao hơn – có nghĩa là khi mạch điện tạo ra điện áp +12V . Bộ phận PWM này làm việc kết hợp với những mạch phản hồi .
Giá trị điện áp ra của mạch VRC phải được tạo ra từ việc đọc chân VID ( Voltage ID) của CPU . Chân VID sẽ cung cấp một mã nhị phân cho biết điện áp chính xác mà điện áp cần cung cấp để CPU làm việc . Một số Motherboard cho phép bạn thay đổi bằng tay điện áp bên trong của CPU bằng chương trình BIOS . Việc thiết lập trong BIOS như vậy khiến cho thay đổi mã mà Bộ phận điều khiển PWM đọc được , do đó Bộ phận điều khiển sẽ thay đổi điện áp CPU theo cấu hình mà bạn đã cài đặt . Những ví dụ trên chúng tôi đề cập vào việc cung cấp điện áp cho CPU làm việc chính xác và cũng cùng với cách thức như vậy được dùng cho việc cung cấp điện áp Chipset và Bộ nhớ .
Bộ chuyển đổi DC-DC là hệ thống chu trình khép kín . Điều đó có nghĩa là
Bộ phận điều khiển PWM theo dõi liên tục những đầu ra của mạch điều chỉnh điện áp . Nếu điện áp đầu ra tăng hoặc giảm thì mạch điện sẽ tự điều chỉnh ( thay đổi tần số của tính hiệu PWM ) để cung cấp điện áp đầu ra chính xác . Điều đó được thực hiện qua bộ cảm biến dòng , khi tiêu thụ dòng điện tăng thì điện áp đầu ra được điều chỉnh giảm và ngược lại .
Trong Hình 14 là sơ đồ khối của Bộ phận điều khiển PWM thường được dùng trong những mạch điện điều chỉnh điện áp CPU ( NCP5392 của On Semiconductor ) . Trên sơ đồ khối có thể dễ dàng nhận thấy những chân nhận biết điện áp từ VID0 tới VID7 , những chân phản hồi ( CS , chân Current Sensor , nằm bên trái ) và những đầu ra được dẫn từ mối Phase ( những chân G , nằm bên phải ) . Như sơ đồ khối cho thấy mạch tích hợp này điều khiển 04 Phase
Hình 14 : Bộ phận điều khiển PWM
Mỗi Phase dùng hai Transistor và một Cuộn cảm . Bộ phận điều khiển PWM không cung cấp đủ dòng để điều khiển Đóng / Mở những Transistor này , do đó phải cần
MOSFET Driver cho mỗi Phase . Thông thường Driver này được chế tạo bằng những mạch tích hợp nhỏ . Trong nhiều trường hợp nhiều nhà sản xuất Motherboard với mục tiêu giảm giá thành sản phẩm thay vì sử dụng
MOSFET Driver họ lại dùng thêm một Transistor khác trên những Motherboard rẻ tiền .
Trong Hình 15 là sơ đồ nguyên lí cơ bản của một Phase trên Motherboard ( việc kết nối vòng phản hồi không có trong sơ đồ này ) có sử dụng NCP5359 là
MOSFET Driver .
MOSFET Driver và những Transistor MOSFET sẽ được cung cấp bởi điện áp +12V cung cấp trên những đầu nối ATX12 hoặc EPS12V ( trên sơ đồ có ghi là “10V to 13.2V” và “4V to 15V “ ) . Trên sơ đồ có 02 MOSFET , 01 Cuộn cảm và những Tụ điện . Tín hiệu phản hồi sẽ được cung cấp bằng cách liên kết hai dây nối song song tới Cuộn cảm , tới Bộ phận điều khiển PWM là chân CS+ ( CSP ) và CS- ( CSN ) . Chân PWM được nối tới đầu ra PWM do Bộ phận điều PWM cung cấp và chân EN là chân cho phép để kích hoạt mạch điện làm việc .
Hình 15 : Sơ đồ nguyên lí đơn giản của một Phase
Như trong Hình 14 , mỗi đầu ra PWM tương ứng với mỗi Phase . Tín hiệu PWM là dạng sóng vuông mà có độ rộng ( trong chu kì làm việc ) thay đổi phụ thuộc vào điện áp mà bạn muốn và đó cũng là nguyên nhân tại sao nó có tên là
Điều chế độ rộng xung ( Pulse Width Modulation ) . Giả sử khi một điện áp đầu ra ổn định thì tất cả tín hiệu PWM sẽ có dạng xung vuông giống nhau . Những tín hiệu này sẽ có một khoảng trễ giữa chúng và gọi khoảng trễ này là thời gian dịch Phase .
Ví dụ một mạch trên có 02 Phase , hai tín hiệu PWM sẽ ngược nhau . Trong khi Phase 1 đang được bật thì Phase 2 sẽ bị tắt và ngược lại . Điều này sẽ chắc chắn mỗi Phase sẽ làm việc 50% thời gian . Trên mạch điện có 04 Phase , những tín hiệu PWM sẽ bị trễ theo cách để mỗi Phase sẽ được kích hoạt tuần tự với nhau : Phase 1 được kích hoạt đầu tiên , sau đó Phase 2 , tiếp theo là Phase 3 và cuối cùng là Phase 4 . Khi một Phase được kích hoạt lên trạng thái bật thì những Phase còn lại ở trạng thái tắt . Trong trường hợp này thì mỗi Phase làm việc 25% thời gian .
Càng có nhiều Phase thì thời gian mỗi Phase được bật càng ít . Điều đó sẽ làm cho mỗi Phase sẽ có ít nhiệt lượng toả ra và mối Transistor làm việc ít hơn và như thế sẽ làm tăng tuổi thọ của linh kiện này
(theo tư vấn tin học)
[right]